Thứ Tư, 3 tháng 12, 2014

Thiên Lương Tỵ Hợi Cách















THIÊN LƯƠNG Tị Hợi cách.
NHẬN XÉT:
Đây là cách không hay, mặc dù chỉ có 4 sao lại không có CỰ MÔN, cuộc sống cứ ngỡ êm đềm nhưng bố cục lại không hoàn chỉnh. Lương thực (Lương) ở trong nhưng ruộng vườn (Đồng) lại của thiên hạ. Nhà cửa tuy rằng THIÊN LƯƠNG may mắn, bóng mát chứ chưa có nền móng THIÊN CƠ. Chứ đừng đòi hỏi cao sang cổng ngỏ. Ta chỉ là kẻ gặp may, còn người bên ngoài là kẻ có phúc. Cứ y như một người đi đường đói bụng, cần ăn bỗng nhiên thấy một quán ăn. Thế là cho rằng mình gặp may. Thật ra chủ quán mới là kẻ may mắn. Cũng như một người đi tìm việc kiếm được việc làm cho rằng mình gặp may. Chắc gì, kẻ may mắn hơn lại là ông chủ. Nếu không có những lao công làm công việc nặng nhọc trên chiếc tàu, liệu ông chủ tàu, ông thuyền trưởng có đi biển được không? Ta cho là may còn họ là phúc.

Nói cái hay dở của THIÊN LƯƠNG cư Ti Hợi là thế. Nó không hoàn chỉnh. Các chữ “Số Phận Định Đoạt” nằm trong tay người khác. So với THIÊN ĐỒNG cư Tị Hợi còn nắm trong tay chữ số. Còn THIÊN LƯƠNG thì không. Nhưng THIÊN LƯƠNG vẫn là ngôi sao Tài năng (4 sao có tài là VŨ THAM CƠ LƯƠNG). THIÊN LƯƠNG cư Tị Hợi, bên trong còn có bộ Dương Lương vì thế nam hay nữ vẫn hy vọng có những tháng ngày may mắn, bộ ĐỒNG LƯƠNG vẫn tìm thấy hạnh phúc nếu biết phối hợp với THIÊN ĐỒNG ở ngoài, còn có các cách ĐỒNG ÂM chỉ sợ e  bị phá cách không thành.
LUẬN ĐOÁN CÁC CHI TIẾT SAU:
NHẤT TRÍ, CÙNG CHUNG MỘT TIẾNG NÓI, ĐỒNG THUẬN:
Tại đây thiên về sự nhất trí giữa bên trong và bên ngoài, dễ tìm thấy đồng minh từ phía bên ngoài đến, đồng minh một cách âm thầm hoặc công khai, hoặc cả 2. Ví du: Dễ hiểu là với A, B và C đến từ bên ngoài, phía A là đồng minh công khai. B nửa công khai nửa bí mật, với C là đồng minh bí mật. Đồng minh đó, có khi chỉ là bạn bè đến từ phía bên ngoài, với người nầy mình tiếp xúc như vậy để cha mẹ không phản đối, với người kia tiếp xúc bí mật sợ cha mẹ không hài lòng... Nói chung dễ kiếm bạn bè.
DÀY và MỎNG. NÔNG và SÂU:
THIÊN LƯƠNG chủ nông cạn, nông nổi, nông nỗi... THIÊN ĐỒNG chủ thâm sâu, thầm kín... Trong nông ngoài sâu. Đàn ông hay đàn bà nông nổi? Ai cũng có thể là nông nổi nếu có THIÊN LƯƠNG đơn thủ. Nhất là trong trường hợp này. Vì bên trong ta nông nổi khó đối phó với bên ngoài thâm sâu, thầm kín. Đây là cái thế bất lợi cho người có THIÊN LƯƠNG Tị Hợi không thể lường trước những toan tính thâm sâu bên ngoài, nhất là THIÊN LƯƠNG lại có tính từ tâm khó đối phó với CỰ MÔN chứ chưa nói đến KHÔNG KIẾP.
Dày là phúc, mỏng là lương. Nếu đi với KHÔNG KIẾP ta gọi là phúc bạc phận mỏng. Mỏng là suy nghĩ nông cạn, tình cảm nông cạn, với chổ thân tình cần thâm sâu, với chổ quen biết cần nông cạn. Hai yếu tố dày mỏng cần nằm một phía mới hay. Vì không phải ai ta cũng sâu dày hay chỉ qua loa được, tùy người tùy hoàn cảnh. Đây là nơi phối hợp 2 yếu tố. Dày và mỏng. Nông cạn và thâm sâu. Cùng một lúc có đủ 2 yếu tố rất đáng quí, tức là phân biệt ta thâm sâu với ai và ai là người ta nông cạn. Ta không thể thâm sâu với người xấu, người xa lạ…
 “Đàn ông nông nổi giếng khơi. Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu”
Bên trong phơi bày, bên ngoài phúc đáp.
THIÊN LƯƠNG chủ phơi bày tâm sự. THIÊN ĐỒNG chủ phúc đáp. Từ đó dễ tìm được tiếng nói chung (Đồng Âm). Nếu THIÊN LƯƠNG không phơi bày tất THIÊN ĐỒNG không thể phúc đáp. Như vậy có lợi cho sự bày tỏ, dễ tìm được tiếng nói cảm thông.
PHÚC ẤM, ÂM PHÚC:
Phúc ấm, âm phúc là gì?. Là những may mắn do dòng họ, mồ mả, tổ tiên đem lại người ta thường nói hưởng âm phúc (tức Đồng Âm) của ông bà.
“ẤM PHÚC tại Mệnh, Thân bất phạ tai ương”. Tức không sợ tai ương vì có sự cứu giúp gặp may mắn mà không cần cầu cạnh ai. Ngoài ra còn dễ thụ hưởng di sản, tài sản, địa vị, tước hiệu của cha ông để lại, tuy rằng cách Âm Phúc của THIÊN LƯƠNG Tị Hợi không lớn nhưng có còn hơn không. Vi vậy được ví như bóng mát cuộc đời. Kị gặp phá cách là họa phúc vô lường hoặc trong phúc có họa, trong họa có phúc.
Âm Phúc  là cách an tĩnh hưởng phúc không bon chen, cầu cạnh, không xông pha nơi chốn chính trường, chiến trường cái may mắn tự nhiên mà tới. Nếu không bị phá cách, được cát tinh, hỉ tinh đây là cách ‘Thần may mắn đang mĩm cười với bạn’.
ÂM THẦM HƯỞNG PHÚC. HẠNH THÔNG:
Tốt là âm thầm, an vui hưởng phúc. Gọi là an tĩnh hưởng phúc. Nếu bị phá cách thì lại là tai họa ẩn tàng. Hoặc đương đầu với bao áp bức. Nếu bộ sao nầy tốt không bị phá cách tức là hưởng. Ngược lại không được hưởng đồng thời còn phải có những lo toan về mồ mả tổ tiên. Xấu là không yên thân, muốn lặng mà gió không ngừng, trong lòng như có những điều không nói được. Cách này không ồn ào như các cách có CỰ MÔN hội họp.
Muốn đánh giá tốt xấu xem phần cần gặp và kị gặp.
NGƯỜI ĐÀN ÔNG MAY MẮN. ĐỨA BÉ CÓ TÀI, ĐỨA BÉ MAY MẮN:
Người đàn ông may mắn. Trong đám dự thi toàn nam giới tất có người đàn ông may mắn nhất. Những người còn lại có phần kém may mắn, nhưng còn may mắn hơn là những người không được hay bị trừ bỏ trước cuộc thi. Bộ  ĐỒNG LƯƠNG chủ đứa bé có tài. Đây là bộ sao chủ thông minh lại thêm có tài. Hay nhất gặp thêm HỈ THẦN chủ thần đồng.
THÁNG NGÀY MAY MẮN:
Ví du: ‘Hôm nay là ngày may mắn của tôi’. Có những người có tháng ngày may mắn. Đó là ngẫu nhiên trúng thưởng, ngày thi đấu xuất sắc, ngày thắng trận trong dịp may... và thường kết luận là hôm nay thật là may mắn. Nhưng nếu bị phá cách tất phải nói là ngày không gặp may, thậm chí xấu quá ,ngày may mắn trở thành ngày xui xẻo. Vì thế cần gặp KHÔI VIỆT chủ phát sinh hoặc Hỉ Hồng Đào để vui mừng. Tuy nhiên có rất nhiều người không có ngày may mắn lớn như thế. Đối với họ ‘một ngày như mọi ngày’.
THIÊN LƯƠNG Tị Hợi và câu phú:
“LƯƠNG, ĐỒNG Tị Hợi. Nam đa lãng đãng, nữ đa dâm”
“LƯƠNG, NGUYỆT Tỵ Hợi. Nam đa lãng đãng nữ đa dâm”
“Kể chi những cách hư hèn. NGUYỆT Thìn, LƯƠNG Tỵ, Hợi viên đó mà”
Trên là những câu phú có những nhận xét nông cạn, nông nổi y như sao THIÊN LƯƠNG vậy. Thật ra nếu LƯƠNG đi với MÃ thì có thể, cũng dừng lại chỉ có thể thôi. Vì còn KHÔI VIỆT, PHƯỢNG CÁC, KHOA cứu giải. Vì cách Lương Mã lương thực và xe cộ mát trời đi chơi, kiếm chỗ ăn uống cuộc sống rất nhàn du. Vì thế còn có câu phú “MỆNH ngộ MÃ LƯƠNG túng du vô yếm” (ăn chơi không chán). Giải thích đến đây chắc bạn cũng hài lòng. Nhưng đi sâu vào còn điểm thú vị nữa, là khi hình thành cách Mã Lương, là vô tình cũng hình thành cách Sát Phá Tham Đào tại hạn. Thế là có thêm một hạn vui chơi đập phá, trai gái chiếm đoạt, ồn ào đấu đá. Vì thế có cách Lương Mã tại MỆNH là mất hay rồi.
SO SÁNH LƯƠNG tại Ti và tại Hợi.
Lương tại Tị và tại Hợi có vẻ như là giống nhau, bộ NHẬT NGUYỆT đều đắc địa tại Sửu Mùi trên nguyên tắc là giống nhau hoàn toàn. Nhưng đi vào thật tế ta tấy Lương tại Tị bị phê phán nhiều hơn là Lương tại Hợi. Ví dụ: “ LƯƠNG tại Tị tất tật du. DIÊU tại Hợi vi minh mẫn” hoặc là “ THIÊN LƯƠNG Hao Sát Tị cung đao nghiệp hình thương”. Vậy thì Lương Hao Sát tại Hợi không bị có đao nghiệp hình thương không? Nếu không giải thích điều này chắc các bạn không bao giờ tìm ra lý do vì sao tại Tị lại tồi tệ đến thế. Có đến 2 lý do.
Một là tại Tị Lương luôn luôn tam hợp hay đồng cung với PHÁ TOÁI. Chính ngôi sao này gây nên điều phiền toái. Ở Hợi sao này cao nhất là xung thôi.
Hai là khi Lương tại Tị tất tại cung Tử Tức có cách THAM LANG ở Dần, tức có lúc hạn hành ta đi qua đấy. Mà THAM LANG tại Dần là một cách không hay, so với tại Thân. Người ta phê phán cách THAM LANG tại Dần nhiều hơn là tại Thân, ngay tai nạn chó cắn cũng sẩy ra với cách LANG HỔ tại Dần chứ tại Thân thì lại không. Vì THAM LANG tại Dần có Địa Võng nói vu vào làm người ta thêm ghét. Vì thế THIÊN LƯƠNG tại Hợi hay hơn Lương tại Tị.
THIÊN LƯƠNG cư Tỵ cần gặp và kị gặp.
* Vị trí này có thể gặp cách “Hiệp KHÔNG hiệp KIẾP chủ bần tiện”.
CẦN GẶP:
BỆNH PHÙ: Hợp cách. Lợi cho nghề thuốc.
PHỤC BINH TƯỚNG QUÂN: Hợp cách, Phục thiện gặp may, phát phúc, phát từ tâm. THIÊN LƯƠNG là ngôi sao u uẩn luôn luôn có nổi niềm kín đáo, ưa phơi bày
KHÔI VIỆT: Cụ túc uy nghi, có tính mô phạm đạo đức, chấn chỉnh cái tính ham ăn, ham chơi của THIÊN LƯƠNG. Còn hợp cách do phát phúc (Đồng Việt) phát may (LƯƠNG VIỆT)
KHÔI VIỆT HỒNG THANH hoăc KHÔI VIỆT CÁI THANH. Nam cận cửu trùng nữ tác cung phi.
THANH LONG: Hợp cách, tức là nói THANH LONG tọa thủ tại bản cung. Chủ lương tâm trong sáng. Trong này tất có bộ Đồng Binh (việc phúc). Còn chủ sự nhất trí, còn hợp với THÁI ÂM thành bộ Âm Thanh cách rất dễ nỏi tiếng.
THÁI TUẾ: Hợp cách. Đi với sao này  lợi cho bày tỏ, phơi bày tâm sự. Vì Lương thích phơi bày tâm sự để tìm cảm thông (THIÊN ĐỒNG) từ phía bên ngoài. Đồng thời vị trí này thường đủ bộ Tứ Linh, Nếu THÁI TUẾ đồng cung tức là TUẾ PHƯỢNG. Có THÁI TUẾ hưởng cách Tam Thái giữ nhưng nhiệm vụ quan trọng.
KÌNH PHƯỢNG: Hưởng cách “Nhất thế uy danh”
LỘC TỒN: Hợp cách. Lương thực và cái kho dành dụm, của để dành.
XƯƠNG KHÚC: Có thêm LỘC (LỘC TỒN hay HÓA LỘC) hội là hưởng cách Lô truyền đệ nhất danh. Nếu không có Lộc vẫn là cách hay vì là bộ sao Văn hóa (tuy nhiên có dâm tính, cần kiểm tra các sao DIÊU Y, ĐÀO nằm ở đâu).
Tam HÓA: Các bộ nhị Hóa hay theo thứ tự KHOA LỘC, KHOA QUYỀN, QUYỀN LỘC. Nếu thấy HÓA LỘC tìm xem có LỘC TỒN nhị hợp không nếu có là cách Minh Lộc Ám Lộc, nếu có LỘC TỒN là cách Song Lộc. Nếu có KHOA tìm xem có LỘC TỒN nhị hợp không, nếu có là cách “Khoa Minh Lộc Ám”.
DIÊU Y: tại Hợi vẫn là người minh mẫn. Nhất là đi với nhóm Văn tinh (KHÔI VIỆT XƯƠNG KHÚC KHOA).
Song Hỉ: Là người may mắn hợp cách với bộ Đồng Lương. Cá biệt hưởng cách Thần Đồng, Kỳ Đồng
ĐÀO HÔNG HỈ đi với nhóm sao này hợp cách. Vì ruộng đồng cần thiết có hoa quả.
LINH KỴ (lịnh cấm, tinh kỳ...): Hợp cách vì những lịnh cấm hợp lý nhất trí (của bộ Đồng Âm) ví dụ Cấm lửa (nơi dễ cháy nổ) đi với QUYỀN LỘC nhất là song Lộc, doanh thương dễ thành công nhất trở thành tinh kỳ, thương hiệu, biểu tượng... như nhìn con sò ta biết Esso, nhìn P ta biết Petro Limex, cái gì đo đỏ chắc Coca, xanh xanh chắc Pepsi... ngày xưa người ta treo tinh kỳ trước cửa hàng (bây giờ người Hoa vẫn còn dùng)
KHOA KỴ: Vẫn hay. Các sao ĐỒNG LƯƠNG VŨ đi với bộ này rất hay. Thực tế là bộ sao khoa học kỹ thuật, những cấm đoán trong khoa học. (Ví dụ tìm mọi cách tắt máy nhanh trong vi tính đều có hại, các file đang mở dở dang, biết vất vào đâu bây giờ. bạn không tin mở chương trình WMP nghe nhạc, bạn không nghe nửa, tắt đi vẫn còn nghe tiếng nhạc văng vẳng vài giây, thật sự khi bạn tắt đi, nó không hiển thị cho bạn thấy nhưng bên trong nó từ từ cất đồ nghề)
KỊ GẶP:
: Rất kỵ gặp sao nầy. Nam khước tác phiêu bồng chi khách. Phiêu bạt phong trần. Nữ dâm. Còn bị phê “túng du vô yếm” (ăn chơi không chán), “ vi nhân phiêu đãng vô nghi” (du lịch bụi, Tây ba lô, Việt ba láp). Vì chỉ biết ăn chơi, đi lại, xe cộ chạy rông. Kể cả trường hợp MÃ xung.
BẠCH HỔ: đồng cung tức từ cung Thiên Di có cách té ngã từ cao CƠ LƯƠNG TANG ĐIẾU. Hạn ngộ dễ sinh tai họa.
HOẢ LINH tối kị. Vì THIÊN LƯƠNG chủ đòn nóc có lửa vì thế kỵ lửa, trừ trường hợp Hỏa đắc địa có thể ứng với thức ăn nóng sốt, hợp với những người làm những hành nghề có cái lò (lò bún, lò mì...lò nung từ xa ta nhìn thấy khói bốc trên mái nhà). Đi với LINH chủ thức ăn nguội, lạnh nói lên nổi vất vả kể cả ăn uống, ngoài nhà còn ám chỉ ngôi nhà lạnh lẽo (chứng tỏ thiếu tiện nghi) về mặt tai nạn, Linh chủ rơi rớt rụng từ trên nóc nhà xuống... vì thế rất kỵ TANG MÃ. Có câu:
 “KHOA QUYỀN LỘC  MÃ tu phòng KHÔNG KIẾP ám xung
CƠ NGUYỆT ĐỒ̀NG LƯƠNG tối kị HOẢ LINH  xâm phá”
Cách Đồng Lương đi với Linh Hỏa bất lợi cho nhà nông vì cảnh đồng khô cỏ cháy.
Nếu có HỎA LINH cần đi với KHOA, có HỎA LINH kỵ KHÔI VIỆT. Nếu có cả KHÔI HỎA KHOA tính phức tạp nhưng khả năng xấu của cách KHÔI HỎA vẫn dễ gặp.
KIẾP KHÔNG: Kẻ dưới lộng quyền. Kẻ dưới là kẻ dưới tay trong nhà là vợ con, các em, tôi tớ. Ngoài xã hội là thuộc cấp, bạn bè. Do THIÊN ĐỒNG lấy nhân hậu đãi người, THIÊN LƯƠNG lấy nhân ái trao đời, nói chung là kẻ hiền gặp côn đồ KHÔNG KIẾP ăn hiếp. Vì thế gặp KHÔNG KIẾP gặp Sát Phá sinh chuyện ăn thua.
Đi với KHÔNG KIẾP là vô phúc bất hạnh, không may dễ cùng chung tai họa.
Giáp KHÔNG KIẾP: Khả năng có thể bị cách này, đây là cách bạn chưa quen TỬ VI khó phát hiện. Xấu nhất là bản cung lại có thêm KỴ.
HAO KIẾP SÁT: Đao nghiệp hình thương, tối kỵ tại cung Tị vì có thêm PHÁ TOÁI. Nhưng tại Hợi thì không.
KÌNH ĐÀ: Nhân ly tài tán. Chủ khó khăn vì lương thực, lương tiền vì thế nào cũng có HAO hội họp.
KỴ: Các trường hợp có KỴ đi với Kình Đà, KHÔNG KIẾP HÌNH là xấu. Cần có KHOA tinh, hay bộ LONG KỴ HÀ hóa giải để có nới đắc dụng. Dễ hình thành các bộ nhị ám, tam ám. Đi với cát tinh là Kỳ tài, Kỳ đồng vì Lương Đồng là cậu bé tài năng.
KỴ LỘC TỒN đồng cung: là cách KÌNH ĐÀ hiệp KỴ. KỴ đóng ngay bản cung sẽ hiệp với Kình Đà bên ngoài, Kình Đà không còn là phên dậu, phòng ngừa cho LỘC TỒN nữa mà quay ra uy hiếp.
THIÊN HÌNH: Dễ bị bạc đãi.
Thiết nghĩ những điều viết trên đây giúp các bạn dư sức để tự mình luận giải đánh giá lá số của bản thân.
TUẦN TRIỆT: Đi với THIÊN LƯƠNG có thể ví vô hại, tuy nhiên có TRIỆT đồng cung dễ bị trừ lương, thiệt thòi về mặt lương thực, lương tiền bù lại cái tâm tốt lộ ra. đi với Tuần hưởng cách Trung lương trọn vẹn thủy chung, tối kỵ gặp thêm KHÔNG KIẾP.

Thứ Ba, 2 tháng 12, 2014

Tử sát tỵ hợi cách

TỬ SÁT Tị Hợi Cách.

TỬ SÁT Tị Hợi Cách.
  NHẬN XÉT:
Đây là cách TỬ SÁT cư Tỵ, Hợi. Gồm 2 chính tinh TỬ VI và THẤT SÁT. Ở đây là nơi xung đột giữa 2 bộ SÁT PHÁ THAM và TỬ VŨ LIÊM hình thành các cách phức tạp ngoài cách trên còn có LIÊM PHÁ, THAM VŨ. Bên ngoài có THIÊN PHỦ hỗ trợ cho nhóm TỬ VŨ LIÊM hình thành thêm cách TỬ PHỦ với nội TỬ ngoại PHỦ. Cho nên để nắm vững cách phức tạp nầy ta cần tìm hiểu các cách kể trên. Đường link đến trang THAM VŨ.
Để gây ấn tượng, người viết đặt tên cách nầy là ‘Định Đoạt’. Còn người xưa đặt tên “Đế Huề Bảo Kiếm” (Vua mang kiếm báu)
Vị trí này có thể gặp cách “Hiệp KHÔNG hiệp KIẾP chủ bần tiện”. Và KÌNH ĐÀ hiệp KỊ vi bại cục. Và LINH XƯƠNG ĐÀ VŨ.
LUẬN ĐOÁN CÁC CHI TIẾT SAU:
Cần đọc lại bài TỬ VI và THẤT SÁT những gì trong phần luận đoán các chi tiết, có thể áp dụng được tại đây. Sau đây 1 số chi tiết bổ sung.
ĐỊNH ĐOẠT.
TỬ VI chủ định THẤT SÁT chủ đoạt, bố cục ở đây vừa định vừa đoạt. Tốt là định đoạt được số phận không những của mình mà còn định đoạt số phận của kẻ khác. Không phải vô cớ mà người xưa phê “Đế huề bảo kiếm” Vua mang kiếm báu, nhưng than ôi chữ “Huề” có 2 nghĩa nếu mất tác dụng là Vua lìa kiếm báu cũng là đây, bị mất đi phần định đoạt, bị kẻ khác định đoạt. Trong gia đình dễ bị vợ con lấn lướt, ngoài xã hội kẻ dưới lạm quyền. Cho nên bị ép buộc mà làm lòng không muốn, bị chèn ép khó thành công.
Vì thế điều cần nhất là phải có HÓA QUYỀN. Nếu có đủ tam Kỳ quá tốt. Hoặc KHOA QUYỀN đi với HỒNG KHÔI, ĐẠI THÁI… đều tốt đẹp.
Kẻ Làm ChủKẻ làm Vua.
Ở đây ta có vua TỬ VI, còn có vua số 2 PHÁ QUÂN, lục hội còn có vua thứ 3 CỰ MÔN. Ý thức thích làm chủ của bộ sao này rất cao. Bên trong TỬ VI được bao bên ngoài có THIÊN PHỦ chủ che. Tuy rằng bao che ở đây không hoàn chỉnh, chỉ có Vua ra ngoài mới được che đậy, so với các cách khác như TỬ VI Tí Ngọ, TỬ PHỦ Dần Thân, TỬ TƯỚNG Thìn Tuất thì cách TỬ SÁT có phần sút kém hơn yếu tố bao che.
TỬ VI là ngôi sao ưa làm chủ lãnh đạo nhưng muốn làm chủ dù một cơ sở kinh doanh, hay sản xuất gì đó cần có TẢ HỮU vì nó là biểu tượng của công nhân và những người giúp mình đứng ra điều hành quản lý công việc. Thiếu 2 bộ sao trên là chỉ làm chủ bản thân mình cũng vất vả lắm rồi. Nếu đi với Cát tinh rực rỡ thì cũng có thể phong Vua như Vua Cải lương, Vua bóng đá, Vua phần mềm… cho đến Vua lừa đảo tùy theo Hung Cát tinh mà luận đoán.
Có 2 bộ sao trên rồi. Rất cần thiết phải có tam Hóa chủ thành đạt được sự hỗ trợ của Văn tinh là điều đáng quí. Và không vi phạm bộ KỴ HÌNH, nếu có thì dù Vua từ cha truyền con nối cũng bị phế truất. Và tất nhiên ở 2 vị trí Tị Hợi nếu thấy KHÔNG KIẾP là có đủ bộ, hoặc giáp KHÔNG KIẾP tất không phải là vua thật sự (vua gì mà cha mẹ anh em đều nghèo, hoặc xuất thân không xứng đáng). Tất nhiên TỬ VI rất sợ gặp TUẦN TRIỆT đứng chình ình trước mặt: “Trẫm không thích làm Vua đâu”, ngay cả THẤT SÁT cũng không ưa bộ sao này vì THẤT SÁT chủ Mất mà TUẦN TRIỆT chủ Vong, chủ quên. TỬ VI mà thấy tam Không coi như đã chết… có thoi thóp thở cũng như kẻ mất hồn. Còn đường bước lên ngai vàng gian nan không kém. Để mang cây kiếm báu hay được Vua ủy quyền mang cây Thượng Phương bảo kiếm chẳng còn lại mấy ai.
Giả sử ta có tam Hóa cộng thêm nhiều Cát tinh cũng là người rất thành đạt trong xã hội tất nhiên là tài năng hơn người nhưng thiếu Tả Hữu. Nhưng e rằng điều đó chỉ làm buồn thêm mà thôi. Vì những người có cơ may, cơ hội ngồi trên đầu trên cổ của mình.
ĐOẠT ĐƯỢC ĐỊA VỊ. SOÁN ĐOẠT ĐỊA VỊ. ĐÁNH MẤT ĐỊA VỊ. KHỦNG HOẢNG ĐỊA VI,..:
Khi tốt là đoạt được địa vị, soán đoạt được địa vị. Khi xấu khủng hoảng địa vị, đánh mất địa vị. Những hình ảnh lộn xộn của quốc gia láng giềng Thái Lan (2009) cho ta hình ảnh của bộ TỬ SÁT hoặc TỬ PHÁ. Được đấy rồi mất đấy, khủng hoảng về địa vị của các cấp lãnh đạo. Tầm thấp hơn. Chủ khủng hoảng địa vị quyền lực trong gia đình và ngoài xã hội, dễ bị mất, bị đoạt do tranh giành, trong gia đình kẻ nhỏ, con cái cướp phần định đoạt. Cần cát tinh chủ yếu là Quyền tinh. Xa lánh Tuần Triệt kị gặp KHÔNG VONG chỉ là hư danh, chứ chẳng có quyền hạn gì. Cho nên có câu: “TỬ VI THẤT SÁT gia KHÔNG VONG hư danh thụ ấm” chỉ được cái địa vị chứ không có thực tài.
Nếu có QUYỀN LỘC KÌNH ĐÀ là cảnh trên đội, dưới đạp để bảo vệ quyền lợi của mình mới tồn tại, bằng không rút lui về ẩn thân hoặc kinh thương, làm người quân tử an phận.…
Nói chung thấy KÌNH ĐÀ là thấy cảnh dễ gặp khó khăn trên đường công danh, phải chống người này phải theo kẻ kia… hình thành các cách Sát Kình chủ đấu tranh, Sát Đà chủ áp bức. Khi mất khi được. Khi phe ta thắng, khi phe ta thua. Dễ gặp cái họa là “Khi Công Họa Loạn” (xem thường cửa quan, dễ gặp họa trong thời tao loạn/ thời không cai trị bằng luật pháp). Cách TỬ SÁT có KÌNH đi với tam Hóa đó là dấu hiệu thành công trong gian khó.
Cách TỬ SÁT là cách hay nhất trong trường hợp TỬ VI đồng cung với nhóm SÁT PHÁ THAM (các cách TỬ PHÁ, TỬ THAM) từ vị trí TỬ SÁT ta còn có cách THAM VŨ ham muốn trổ tài, bên ngoài TỬ VI còn có THIÊN PHỦ hỗ trợ.
BÍ MẬT bị KHÁM PHÁ. KHÁM PHÁ BÍ MẬT.
Các trường hợp TỬ VI cư Sửu Mùi, Mão Dậu, Tỵ Hợi được đánh giá là tính bảo mật không cao dễ bị khám phá, do đồng cung với nhóm SÁT PHÁ THAM.
Tốt là thiên về khám phá ra, tìm ra bí mật, bí ẩn....  Ví dụ: Tìm hiểu thế giới bí mật của loài.... Khám phá ra Châu Mỹ... Tìm hiểu bí ẩn của lá số TỬ VI...Vô số điều bí mật bao quanh chúng ta. Chúng ta từ đâu đến? Vũ trụ có giới hạn hay không? Có sinh vật nào nữa không? Dưới đất vẫn còn muôn vàn bí hiểm, nhiều vùng đất lạ kỳ dưới nước càng thêm huyền bí, trong khi chúng ta vẫn chưa hiểu hết bí ẩn, tiềm năng, cấu trúc chính ngay cơ thể của mình. Vua khám phá ra đời đâu cần mang kiếm báu. Đâu cần tranh đoạt ngai vàng với ai. Sau này khỏi buồn lòng khi nghe câu “Nhất tướng công thành vạn cốt khô” và cũng đừng ám ảnh Đế huề bảo kiếm. Trên mặt trận Khoa Học cần nhiều vua như vậy. Trên mặt trận Kinh Tế, Văn Nghệ cũng cần rất nhiều vua như vậy để chiếm lĩnh thị trường trong nước… như thế cũng là vua mà không gây cảnh tang thương, đổ máu cũng phải đánh (THẤT SÁT) cũng phải phá (PHÁ QUÂN) tất nhiên cũng phải có tham vọng (THAM LANG) cho cá nhân nói riêng thôi, chứ chưa nói đến đất nước.
Nhưng nếu có mưu đồ xấu cách TỬ SÁT dễ bị lộ bí mật cho dù ngôi TỬ VI không ngộ TRIỆT nhưng đứng tại Tị cung rất dễ bị lộ vì lưu Triệt, tệ nhất là lưu Kỵ + lưu Triệt. Ở cung Hợi tuy có kín đáo hơn không bị TRIỆT đương đầu nhưng vẫn bị lưu Kỵ lưu Triệt hàng năm hỏi thăm. Vì ở đây bao một nơi mà che một ngả. Vậy yếu tố bảo mật của cách này yếu. Trừ trường hợp ở Hợi tương đối tốt hơn so với ở Tị
Tốt là:TẠO ÁP LỰC, GÂY SỨC ÉP xấu là: BỊ ÉP BUỘC, BỊ ÁP LỰC
Tốt là đi với cát tinh có Tả Hữu gia thêm KHOA QUYỀN LỘC Trong trường hợp nầy được phê ‘Nhất triều phú quí song toàn’. Tức tương đương ngôi vị Tể Tướng ngày xưa, Thủ Tướng ngày nay, không gặp nhóm Tam Không, KỴ HÌNH hội họp.
Khi xấu gặp các sao KỊ HÌNH KÌNH (xem mục kỵ gặp ở dưới).
Đây là vị trí dễ bị ép buộc, bị áp lực phải làm, làm những điều không muốn. Bị ép buộc hơn là được ép buộc kẻ khác. Như bị áp lực phải thôi việc, dễ bị mất việc. Bị ap bức làm những công việc vượt quá sức của mình. Xấu là suốt đời chỉ thấy khó khăn và trở ngại. Công việc, địa vị không bền, không như ý muốn. Thất vọng nhiều hơn hy vọng, thành ít bại nhiều.
Nếu thấy KÌNH ĐÀ còn là cách khi công họa loạn, chốn quan trường không thích hợp, chỉ nên kinh thương.
Khi xấu còn bị: CHIA LÌA ĐỨT ĐOẠN.
Trong quan hệ tình cảm gia đình, khó xum vầy giữa bản thân và cha mẹ, bản thân và con cái. Khi xấu còn là thân thể bị chia lìa đứt đoạn bởi vậy không nên an Thân tại đây. Nhà cửa, tài sản bị chia lìa đứt đoạn. Ở ngôi cao quí sơn hà bị chia lìa đứt đoạn.
Dễ lâm vào hoàn cảnh cô thân, cô thế, thất vọng nhiều hơn hy vọng. Có thấy cũng bằng không, bị che, bị lấp, không cho nhòm ngó quan sát. Dễ bị bên ngoài theo dõi, soán đoạt, giết hại. Thanh danh kẻ bên ngoài hưởng, tiếng xấu mình cam chịu. Kẻ thiệt thòi.
VÂY, Bị Vây, bị đoạt:
Tốt là vây bọc, bao vây kẻ thù. Được quần thần, kẻ thân thích vây bọc bảo vệ tung hô, lụa là vây bọc lấy thân...Xấu là bị kẻ thù bao vây không đường chạy thoát, chẳng có kẻ thân cận bên cạnh, áo quần không đủ che thân. Còn bị đánh mất địa vị thanh danh.
Quyết định sai lầm.
Khi xấu bộ sao náy dễ phạm phải những quyết định sai lầm. Từ đó đưa đến những đổ vỡ trong công việc cũng như hạnh phúc. Chú ý các cách Linh Xương Đà Vũ và THIÊN HƯ đồng cung kể cả lưu Thiên Hư.
SO SÁNH TỬ SÁT Tị và Tử Sát Hợi.
TỬ SÁT Tị hay hơn TỬ SÁT Hợi bố cục tại Tị các cung Phụ, Tử và Điền tốt hơn. Ách cung có Âm sáng.

Cách TỬ SÁT cần gặp và kị gặp.
CẦN GẶP:
TẢ HỮU: Dựa vào đấy để thành công. Có Tả Hữu nhưng thiếu tam Hóa chờ đến hạn có tam Hóa xứng ý toại lòng nhưng vẫn không tốt bằng có đủ bộ ngay tại MỆNH.
XƯƠNG KHÚC: Phú quí khả kỳ.
Bộ Tứ Linh, KHOA QUYỀN LỘC xem mục kẻ làm chủ, kẻ làm Vua. Tốt là:
“TỬ SÁT đồng lâm Tỵ Hợi nhất triều phú quí song toàn” Nhất triều là quan Tể Tướng ngày xưa, Thủ tướng ngày nay.
HÓA QUYỀN: Phản tác tinh tường. Xem mục Đinh Đoạt.
Tam Hóa: “TỬ VI tu cần Tam HOÁ, nhược phùng Tứ Sát phong bãi hà hoa
Phong bãi hà hoa như đám hoa sen tàn sau cơn gió mạnh.
MỆNH có tam Hóa nhưng thiếu Tả Hữu. Vậy hãy chờ đến hạn có Tả Hữu tất thành công. Hay nhất vị trí Tả Hữu tại mộ cung.
LỘC TỒN: Nhất là có thêm TẢ HỮU quí bất khả ngôn.
TỬ VI nam Hợi, nữ Dần cung. Nhâm Giáp sinh nhân phú quí đồng
TỬ SÁT ở Hợi lợi cho Nam dù chữ Nhâm hay Giáp gì cũng hay. Chữ Giáp được tam Hóa. Chữ Nh âm được LỘC TỒN QUYỀN KỴ hình thành bộ kỳ tài VŨ KỴ. Nữ thì bộ TỬ PHỦ tại Dần mới hay được bao được che. Không có sự soán đoạt như cách TỬ SÁT.
HỎA LINH: Đi với 2 sao này vẫn tốt vì TỬ VI rất thích Linh Hỏa chủ lịnh lạc khẩn cấp, một yếu tố quan trọng trong chỉ huy. Nhưng kỵ gặp thêm HAO thành cách Hỏa Hao (tức có KÌNH ĐÀ) dễ nổi giận đốt phá gây họa.
Nếu có LINH chớ gặp thêm VIỆT HÌNH dễ bị tai họa giáng xuống đầu. (bộ HỎA LINH không hợp với bộ KHÔI VIỆT chủ phát sinh giận hờn, nổi lửa). Đi với KÌNH xem phần Kỵ gặp.
SÁT TỬ Tốn cung ‘đế huề bảo kiếm’. HOẢ TUYỆT nhập  xâm đa sát chi nhân. Hạnh ngộ KHOA  MÃ BẬT ẤN HỒNG SINH vi lập chiến công vi đại tướng
Bao giờ SÁT PHÁ THAM đi với KHOA là rất tốt.
KỊ GẶP:
HÌNH, KÌNH, KỊ nhất là khi có 2 hay cả 3 sao này.
“THẤT SÁT HÌNH KỊ ĐÀ DƯƠNG. Chẳng mặt thì ngực có thương mới là” (bị thương là may)
KÌNH ĐÀ: Khi công hoạ loạn. Cắng kiến tắc thương. Khinh thường công danh dễ gặp họa trong thời loan, suốt đời thấy khó khăn trở ngại, nên kinh thương. Vì Kình Đà trong Kinh thương là kinh doanh và bành trướng. Hợp với cách TỬ PHỦ ngộ KÌNH.
“SÁT lâm tuyệt địa hội DƯƠNG ĐÀ. Nhan Hồi yểu chiết”
Tuyệt địa đây là cung Hợi. Tức cách TỬ SÁT cư Hợi. Hội DƯƠNG ĐÀ là các tuổi Kỷ, Đinh.
Tuy nhiên điều cần biết mặc dù có KÌNH nhưng đắc Khoa Quyền Lộc đó là dấu hiệu thành công trong gian nan.
Ví thử đường đời bằng phẳng mãi.
Anh hùng hào kiệt có hơn ai
DƯƠNG LINH: (KÌNH LINH) Chuyên ỷ DƯƠNG LINH chi ngược. Bộ sao này chủ chống lịnh như chống người thi hành công vụ, vì thế bị phê “chi ngược” làm điều trái ngược.
KÌNH HÌNH: Kình chống và trừng phạt gây ra cảnh lộn xộn bất ổn. Nên Kinh thương nếu có Hóa Lộc dễ thành công. Chú ý tìm cách Minh Lộc ám lộc xem thử có hay không.
KỊ HÌNH: Dễ vi phạm pháp luật, Dể bị giết. Yểu
HOẢ HAO: Tai ương, gặp thêm VIỆT HÌNH tai họa giáng xuống khó thoát.
LINH XƯƠNG ĐÀ VŨ: có thể gặp cách nầy. Dễ nghe lời xúi giục mà hành động sai lầm. Đừng quên THẤT SÁT có tính sai lầm. Cần gặp QUYỀN.
TAM KHÔNG: Dễ chết. Hư danh. Kỵ gặp đủ bộ tam Không. Bản thân TỬ VI đã sợ tam Không rồi lại thêm THẤT SÁT chủ mất đi với tam vong. Tính mất mát càng cao.
ĐÀO HỒNG KHÔNG KIẾP: Yểu, gieo tai họa, tạo ra tai họa do mình. Gánh lấy những tai họa do mình gây ra, công việc không thành.
KIẾP SÁT: Thành cách lưỡng sát, dễ bị kẻ dưới cướp đoạt của mình. Nhưng chỉ có duy nhất bộ sao này thôi không đáng ngại, chỉ e gặp thêm KÌNH ĐÀ, HÌNH gây ra những xung đột giữa cho, giữa mượn rồi chiếm đoạt.
BẠCH HỔ dấu hiệu thất bại về sau, kỵ các năm có lưu BẠCH HỔ tại MỆNH (tức là năm tuổi)
THẤT SÁT lâm Thân, Mệnh lưu niên  BẠCH HỔ tai thương
LƯU Ý các cách Giáp có thể gặp. Là Giáp KHÔNG KIẾP. Nếu có LỘC TỒN kỵ gặp HÓA KỴ đồng cung là cách giáp Kình Đà (thay vì Kình Đà bảo vệ trước sau cho LỘC TỒN nay phản phé)
MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP ĐỂ GIẢI ĐOÁN:
THIÊN MÃ:
Bản cung có THIÊN MÃ nếu thấy KÌNH DƯƠNG tam hợp chiếu về Vua phải chiến đấu vất vả ngoài biên cương mới thành công. Nhưng tối kỵ gặp HÌNH hay HỎA. Dễ nguy hiểm cho bản MỆNH. Mã HÌNH KHỐC rất oai hùng (nhưng dễ bị thương vì cách HÌNH MÃ vốn đã có KÌNH)
Mà không có KÌNH tức Vua phải lao động bằng tay chân. Nhờ đó mà nổi danh.
PHỤC BINH hay TƯỚNG QUÂN đồng cung vì đây có THẤT SÁT. Kinh nghiệm cho thấy Vua ra trận dễ làm mất quân mất tướng. Nhưng nếu đi với BINH MÃ, TƯỚNG MÃ nên phục vụ tại văn phòng là hay nhất.
CÔ THẦN:
Đồng cung hoặc xung chiếu Vua khó xây dựng gia đình. Vì Cô Thần chủ cô đơn và THẤT SÁT chủ đơn chiếc. Chờ đáo hạn PHỦ TƯỚNG (Phúc, Phối) dễ xây dựng gia đình nếu như không có KHÔNG KIẾP TRIỆT.
THIÊN HƯ đồng cung:
Thiên về vua giả như Vua cải lương… Hạn ngộ bộ sao này còn chủ hư sự (mọi việc khó thành) TỬ VI chủ vụ việc đi với Thiên Hư chủ hỏng việc. Đưa đến những quyết đinh sai lầm. Gánh lấy những thất bại.
THÁI TUẾ:
Đi với THÁI TUẾ hoặc tam hợp có THÁI TUẾ rất hay (tức có bộ TUẾ HỔ PHÙ), Nhưng đồng cung có BẠCH HỔ kém hay vì THẤT SÁT ngại gặp sao này dấu hiệu thất vọng. Đi với THÁI TUẾ là người có trí dũng song toàn. Vì THẤT SÁT bị coi là hữu dũng vô mưu (mưu trí nằm ở sao THAM LANG)
CÁO PHỤ:
Bộ sao này lợi cho phong thưởng ân tặng đi với Quang Quí kết thành bộ Tứ Vinh thêm vẽ vang, đứng riêng còn chủ bảo ban của bậc trên.

Đồng âm tý ngọ cách

Đồng Âm Tý Ngọ

ĐỒNG ÂM Tý Ngọ Cách.
Gồm 2 sao THIÊN ĐỒNG, THÁI ÂM.Gọi tắt là ĐỒNG ÂM Tý Ngọ. Đây là bài cơ bản về cách ĐỒNG ÂM.
NHẬN XÉT:
Đây được xem là một cách rất hay lợi cho cả Nam và Nữ. THÁI ÂM sáng
Nam giỏi biện luận, thuyết khách, có tài du thuyết, nắm giữ trọng trách. Nếu có TẢ HỮU XƯƠNG KHÚC hội họp là văn quan thanh hiễn, võ quan trung lương.
Đây thực chất là cách CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG nhưng không hay bằng khi đứng ở vị trí Dần Thân. Bên trong còn có cách CƠ LƯƠNG cho nên cần tìm hiểu thêm về cách nầy để luận đoán thêm phần chính xác. Đường link bài CƠ LƯƠNG
LUẬN ĐOÁN CÁC CHI TIẾT SAU:
Trước tiên cần xem lại 2 bài THIÊN ĐỒNG và THÁI ÂM. Mục luận đoán các chi tiết được áp dụng tại đây và cách CƠ LƯƠNG cư Thìn, cách ĐỒNG LƯƠNG Dần Thân, sau đây là một số chi tiết khác.
QUÁ THIÊN về ÂM. THIÊN VỀ ÂM TÍNH:
Tại vị trí nầy thiên về ÂM tính. Có nghĩa thiên về tính âm thầm, âm mưu, không công khai minh bạch rõ ràng. Còn thiên về nữ giới tùy thuộc Hung, Cát tinh KỊ HÌNH mà nữ giới ấy gieo họa, gặp họa hay ban phúc. Còn thiên về ban đêm, sự việc, sự cố... thiên về đêm.
Còn là chỉ nghe thôi mà không thấy. Từ đó dễ tin theo, dễ mắc mưu mắc bẫy. Ví dụ nghe người ta nói rằng "mất anh rồi, xa anh rồi.." ta tưởng đến lúc nhào vô được rồi, nhưng người ta hát vậy thôi mà. Ví dụ 2. "Tất cả theo lịnh tôi. Xung phong!" có súng nổ tưng bừng. Nhưng thật ra xung phong giả, lại có kẻ địch chạy thật. Quá thiên về nghe dễ phạm sai lầm.
Còn chủ quá thiên về tháng mà không nhớ đến ngày. Ví dụ nhớ tháng mất của cha mà không nhớ ngày nào…Quá thiên về mẹ mà bỏ quên cha, chỉ biết nữ không biết nam. Chỉ biết ban đêm ăn chơi hoặc làm việc bỏ quên không tận dụng ban ngày. Chỉ dám âm thầm nhưng không dám công khai. Từ đó quá nhút nhát, 'đi đêm' dễ trở thành nguy hiểm.
Nam MỆNH có cách nầy tại MỆNH thiên về tính khí như nữ ,kỵ gặp thêm ĐÀO HOA. Tại các cung về người quá thiên về, quá nhiều về giới nữ (tức không có nam).
Nữ MỆNH có cách nầy tại MỆNH thường xinh đẹp nhấtlà tại Tý cung..
NGƯỜI GIÀ, ĐÀN BÀ và TRẺ CON.
Ở đây ta chỉ thấy hình ảnh đàn bà và trẻ con, bên ngoài có sự cật vấn của THIÊN CƠ. Với yếu tố này nếu biết khai thác ta có thể đoán một số nghề nghiệp có tính liên quan như: Bác sỹ chuyên về bịnh đàn bà và trẻ con…
NHẤT TRÍ, CÙNG CHUNG MỘT TIẾNG NÓI, CHUNG LỜI CA
Chủ đồng âm, nhất trí, tiếng nói chung... Ví du: ‘Mỹ tìm được tiếng nói chung với...’  Đây là cụm từ thường gặp trên các bản tin. Tìm được là THAM LANG luôn luôn nhị hợp với THIÊN ĐỒNG. Tốt là như vậy đấy, cũng tình huống nầy xấu mất tác dụng là không tìm được tiếng nói chung, là lạc điệu. Thậm chí đôi khi chết vì không chịu đồng thanh tương ứng.
Trong đời thường ta dễ gặp. Ví du:  ‘Anh yêu em.’ ‘Em cũng rất yêu anh’ Nghe rất êm đềm hạnh phúc, vì từ bộ ĐỒNG ÂM ta  gặp THIÊN LƯƠNG  thành ĐỒNG LƯƠNG chủ hạnh phúc. Nhưng không phải bao giờ bộ ĐỒNG ÂM cũng là sự nhất trí một chiều, khi bị phá cách hoặc Thị phi tinh, CÁO PHỤ, KỊ HÌNH có nghĩa là phản tác dụng, cũng nhất trí theo nghĩa khác Như: ‘Mầy chưởi tao, tao cũng chưởi mầy’. ‘Mầy đánh tao, tao cũng đánh mầy’. Trên trường quốc tế trước khi 2 bên đem quân đánh nhau cũng có 1 trận đấu võ mồm rất ngoạn mục. Ví du: như cuộc chiến Mỹ và IRAQ cuối cùng 2 bên ‘nhất trí’ phải dụng binh.. Trong truyện KIỀU có câu”
...’Cùng chung một tiếng tơ đồng, Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm’...
Đó là trường hợp ngộ THIÊN KHÔNG, cùng nghe, cùng tham dự kẻ vui, người không. Trong buổi họp biểu quyết có 50% thuận, 50% chống.
"Em gắng chờ anh ngày mai chung lời ca. Rồi đây nối lại tình xưa đậm đà. Người hôm nay còn"
Ca từ trên chỉ sự ĐỒNG ÂM nghe nhẹ nhàng tình cảm. ĐỒNG ÂM cuộc sống êm đềm, đồng thuận, một tiếng ừ êm ái, tất nhiên cần một bộ Đồng Âm không bị phá cách không bị mất  tác dụng
NGHE NHỮNG ĐIỀU HẠNH PHÚC.
Tôn giáo Tin Lành thường rao giảng là Phúc Âm với nghĩa: ‘Tiếng nói ban ra niềm hạnh phúc.’ (Đó là điều tôi nghĩ như vậy, vì tôi không phải là tín đồ của tôn giáo nầy.) Nói chung bộ sao này chủ được nghe những điều đạo đức, nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, từ bi, hỉ xả... là điều lành tốt đẹp, được nghe lời hay, ý đẹp nếu không tiếp thụ nhiều tất cũng được ít trong lòng.
Khi bị mất tác dụng, hoặc phản tác dụng là phải nghe những điều vô đạo đức, bất nhân, bất nghĩa, vô lễ, bất trí, bất tín, hung tàn, hẹp hòi cố chấp. Từ đó xâm nhập vào lòng coi như những điều ấy bình thường, cư xử với nhau bằng thủ đoạn, khôn sống dại chết, đánh mất đi tình người, so đo tính toán, mưu cầu lợi dụng, mượn danh đội lốt. Khi gặp bộ ĐỒNG ÂM tốt ta được nghe những điều tốt lành.
PHÚC ẤM. ÂM THẦM HƯỞNG PHÚC. HẠNH THÔNG.:
Tốt là âm thầm, an vui hưởng phúc. Gọi là an tĩnh hưởng phúc, âm thầm hưởng phúc , êm đềm hạnh phúc. Nếu bị phá cách thì lại là tai họa ẩn tàng. Hoặc đương đầu với bao áp bức.
Nếu bộ sao nầy tốt không bị phá cách tức là hưởng âm phúc của người khuất mặt, hưởng phúc từ mồ mả đem lại. Ngược lại không được hưởng đồng thời có những lo toan về mồ mả tổ tiên. Xấu là không yên thân, cây muốn lặng mà gió không ngừng, trong lòng như có những điều nhưng không nói được.
Muốn đánh giá tốt xấu xem phần cần gặp và kị gặp.
TIẾNG NÓI TRẺ CON, KẺ DƯỚI
Chủ tiếng nói trẻ con, con nít, con cháu còn là kẻ dưới... Tiếng nói trẻ con, có người đó là niềm hạnh phúc vô biên nhất là cho những ai hiếm muộn, tuổi cao chưa có con hoặc cháu, trong nhà vắng tiếng trẻ con cũng là dấu hiệu bất hạnh, không có người nối dõi tông đường. Vì vậy tiếng trẻ con đâm ra quan trọng.
Nhưng quan trọng là tiếng nói ấy êm đềm, vui vẽ, đầm ấm trên thuận dưới êm? Hay là tiếng khóc la phiền toái, hoặc tiếng nói hỗn láo, vô giáo dục của kẻ dưới nói chung. Thật đau lòng xấu hổ khi con trẻ nói lại, dạy khôn, thậm chí chưởi bới lại bậc trưởng thượng. Cách nầy dễ phat hiện khi có tại đây bộ CÁO PHỤ nhất là tại đây có thêm CỰ MÔN. Vì vậy đây là cách tiếng nói trẻ con, kẻ dưới vui buồn, hỗn láo tùy Thị phi tinh định đoạt..
TRÙNG NGÀY TRÙNG THÁNG.
Ví dụ như ngày 5 tháng 5 là ngày trùng ngũ. Ngày 10 tháng 10 là song thập. Ngày 7 tháng 7 là song thất… Nó liên quan đến những ngày trùng như vậy, tùy theo Hung cát mà các ngày ấy đem lại may mắn hoặc tai họa.
TRÙNG ÂM.
Trùng như định, đình, đính
Trùng vần âm như lương, sương, thương.
Trùng âm nhưng khác nghĩa. Nhân nhân ái, nhân đạo, nhân (hạt), nhân (nguyên)
Ví dụ về trùng âm. Anh tên là gì? Tên là Đình. Cái chi? À tên là Tình, tình yêu đó mà. Anh Tình ơi!... (thế là Đình cười thầm trong bụng)
THÔNG TIN bằng Âm Thanh.
Chủ thông tin bằng âm thanh. Đồng Âm thực tế là tiếng trống đồng. Âm thanh của tiếng trống, ngày xưa người ta trao đổi thông tin bằng tiếng trống. Vì thế bộ Đồng Âm lợi cho sự thông tin, trao đỏi tin tức. Khi có chiếc máy điện thoại bàn người ta rất ái mộ, đến khi có di động người ta lại sùng bái nó. Ngày xưa người ta thường dùng hò vè … đối đáp để trao đối thông tin. Đến khi có xe cộ lại dùng còi xe để trao đổi. Ví dụ: tin tin tin là em ơi ra ngõ cho anh gặp mặt. Và tiếp đây là trao đổi thông tin của Nguyễn Trải và Thị Lộ.
Nguyễn Trải:
Cô ở đâu đây bán chiếu gon/ Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn? Xuân xanh nay độ bao nhiêu tuổi? Đã có chồng chưa được mấy con.
Thị Lộ:
Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon/ Cớ chi ông hỏi hết hay còn/ Xuân xanh nay độ trăng tròn lẽ? Chữa có chồng chớ hỏi chi con.
THIÊN ĐỒNG luôn luôn bị thôi thúc vì THAM LANG nhị hợp, tại vị trí ĐỒNG ÂM Tí Ngọ càng thôi thúc hơn bởi VŨ KHÚC cổ vũ. THIÊN ĐỒNG luôn luôn muốn tìm người đồng cảm ấy. Ngày nay không còn cảnh ban đêm nhấn còi xe inh ỏi nữa, bố mẹ cũng không bị quấy rầy bởi điện thoại bàn, may nhờ có di động, di động còn nhườngchỗ cho Chát, Mail, Web cam, Blog để phơi bày (THIÊN LƯƠNG) tình cảm. Có khi còn quá loạn phơi bày cả cơ thể (THIÊN CƠ).
Đó là nói chuyện yêu đương trai gái. Đồng Âm đâu chỉ dừng ngang mức ấy là nơi để thông đồng tin tức, móc nối phe ta phe địch. Xem tiếp làm rõ thêm.
THÔNG TIN, TRAO ĐỔI THÔNG TIN, TRUYỀN THÔNG
Đây là bộ sao lợi cho sự trao đổi thông tin với ai đó, truyền thông đến với mọi người thông điệp mà ta muốn gởi đến. Như Tổng Thống Mỹ gởi thông điệp đến nhân dân Mỹ. Bin La Den gởi thông điệp đến Tổng Thống Mỹ... Như vậy nội dung thông điệp cũng quan trong. Nhưng vấn đề cũng quan trọng không kém là không thuận lợi khi trao đổi thông tin, thông tin bị trở ngại, có thông điệp mà gởi đi không được. Đó là chưa kể tai họa vì trao đổi thông tin.
Từ trao đổi thông tin đến tư thông, thông đồng, ám thông, thông gian, thông dâm tùy thuộc hoàn toàn các bàng tinh tụ tập.
Thuận lợi hay không do Hung, Sát tinh KỊ HÌNH quyết định, từ đó có thể đưa đến can tội tư thông, thông đồng, thông gian với giặc. Từ đó còn là.
ÂM MƯU, ÂM THẦM THÔNG ĐỒNG, ÂM MƯU THÂM ĐỘC, ÁM THÔNG:
Tốt là lương kế, mưu sự tất thành, thông suốt hạnh thông.
Xấu là dễ mắc mưu thâm độc của kẻ khác. Vd: Ám thông với giặc, tức thông đồng với địch. Ám thông là bộ ĐỒNG ÂM. Quan trọng là có hay không có ám thông? Ám thông với ai? Chuyện gì? Chuyện ấy tốt hay xấu vì không phải ám thông là xấu mà rất cần thiết trong hoạt động ngoại giao, quân sự và cả trong đời sống xã hội.
Từ ám thông là từ cổ, người viết lượm lặt trong các trang sử cổ, cho nó sống lại. Ngày nay  ta có thể dùng cụm từ ‘Âm thầm thông đồng với...’ hoặc dễ sợ hơn là ‘Âm mưu thông đồng...’
BỤNG DẠ ĐÀN BÀ.
Đây còn là ‘Bụng dạ đàn bà’ với cả nghĩa đen và nghiã bóng. Nghĩa đen là cái bụng đó nó phồng lên sinh ra ‘Tiếng nói trẻ con’ bi bô như đã nói ở phần trước. Nghĩa bóng là từ bụng dạ ấy toan tính những điều riêng tư, chung đụng. Lấy cái chung, cái công làm lợi cái riêng... Bụng dạ đàn bà là thế.
NGÀY THÁNG ÊM ĐỀM.
Nếu như ta có CỰ NHẬT với những tháng ngày xa cách, tháng ngày cách biệt, những ngày cãi nhau chí chóe… Thì ĐỒNG ÂM là những ngày tháng êm đềm hạnh phúc, may mắn. người viết chọn tiểu mục này để kết thúc phần luận đoán chi tiết tại đây.
So Sánh cách ĐỒNG ÂM ở Tý và ở Ngọ.
Cách ĐỒNG ÂM  cần gặp và kị gặp.
CẦN GẶP:
TAM MINH (ĐÀO HỒNG HỈ) phú quí khả kỳ.
XƯƠNG KHÚC hợp cách nhất rất cần thiết phải có mới đắc lực nổi trên phương diện Văn nghệ và phú quí vinh hoa.
TẢ HỮU cần thiết nhất là có thêm XƯƠNG KHÚC.
KÌNH DƯƠNG, PHƯỢNG CÁC: Hợp cách “KÌNH DƯƠNG, ĐỒNG ÂM nhi phùng PHƯỢNG CÁC nhất thế uy danh”. Lợi cho công danh nhưng về phương diện tình cảm, sức khỏe chưa chắc đã hay. “KÌNH DƯƠNG ĐỒNG ÂM nhi phùng PHƯỢNG CÁC nhất thế uy danh”
KHÔI VIỆT  phát phúc, phát sinh từ tâm đem lòng giúp người. “PHÚC phùng VIỆT diệu định thị hải hà dục tú”
Hợp với tuổi Bính, Đinh. “THÁI ÂM cư Tí́ Bính, Đinh phú quí trung lương”. Chữ Bính an tứ hóa là Đồng Cơ Xương Liêm trước mắt có bộ Quyền Lộc. chữ Đinh là Nguyệt Đồng Cơ Cự hưởng ngay bộ Tam Hóa
CÓ THỂ GẶP:
TỨ HUNG ( TANG HỔ ĐIẾU BINH ) lại hoá tốt. Hợp với THIÊN ĐỒNG vì sao này thích có đồng minh, đồng bọn… chính những cái đồng này đem lại đồng tiền để nuôi THIÊN ĐỒNG và trong này còn có cách ĐỒNG PHỤC (cùng phục vụ cho nhau).
KỊ GẶP:
TUẦN TRIỆT: Bất lợi vì tại đây NGUYỆT sáng bị che mờ, cuộc sống êm đếm có một nửa mà thôi.
KHÔNG KIẾP là vô phúc. Không phải phúc đâu mà họa đấy. Trước mắt là thấy cái họa kẻ dưới ức hiếp người trên, cái họa do con nít mang lại… và cái họa dễ gặp tai nạn tập thể, dính chùm. Chỉ cách này thôi là cả một bài viết dài hơi.
HỎA LINH là phá cách
KÌNH DƯƠNG: Tao thương, đa khắc thân trong lòng có sự chống đối, đồng thời  thân thể dễ bị thương tích. Nhưng nếu gặp Kình có đuôi PHƯỢNG CÁC lại tốt.
ĐÀ LA: Mệnh cung kị NGUYỆT ngộ ĐÀ LA có tính dâm.
CÁO PHỤ: Phũ phàng
HÌNH DIÊU: Mục tật
TAM ÁM: Hoạ vô đơn chí
HỔ, KHỐC, DIÊU, TANG: Nữ Mệnh thường xinh đẹp vì cách trăng tròn giữa trời đêm nhưng nhiều nước mắt trên đường tình ái nếu gặp Tang Hổ Khốc Diêu, tức 2 tuổi Thìn Tuất dễ gặp nhất, nhì là Dần Thân.
ĐỒNG ÂM cư Tí. NGUYỆT LÃNG THIÊN MÔN dung nhan mỹ ái. HỔ, KHỐC, DIÊU, TANG  xâm nhập chung thân đa lệ phối duyên”. Được phê là cách ‘Nguyệt Lãng Thiên Môn’
HAO: Là cách Phi Lễ Thành Hôn
MỘT SỐ CÂU PHÚ LIÊN QUAN:
“Đan trì, Quế trì tảo toại thanh vân chi chí”
 Đây là cách  THÁI ÂM sáng cần nắm vững cách THÁI ÂM  sáng và THIÊN ĐỒNG và cách CƠ LƯƠNG, có nghĩa là tuổi trẻ sớm nổi danh toại chí nhưng nếu ĐỒNG ÂM ở Ngọ vãn tuế tất thành, cao niên mới đắc ý. Sau đây vài câu phú nhắc lại.
 “LƯƠNG tú, ÂM linh nghi tác đống lương chi khách”
Là tôi lương đống của triều đình. Tất cần có Tam Hóa và nhất là XƯƠNG KHÚC.
“ÂM DƯƠNG lạc hãm tu cần Không diệu tối kị Sát tinh.
NHẬT NGUYỆT tịnh minh tối kị TAM KHÔNG tu cần KHOA LỘC”
Âm DƯƠNG hãm rất cần TUẦN TRIỆT lại càng kỵ KHÔNG KIẾP. Khi sáng tối kỵ Tam Không cần KHOA LỘC (dấu hiệu của thành công)
“KHOA QUYỀN LỘC  MÃ tu phòng KHÔNG KIẾP ám xung
CƠ NGUYỆT ĐÒNG LƯƠNG tối kị HOẢ LINH  xâm phá”
Có Hỏa Linh bộ CƠ NGUYỆT ĐỒNG LƯƠNG bị đánh mất cuộc sống bình yên. Vì HỎA LINH chủ giận hờn còn là Lịnh lạc khẩn cấp… thế là có những tháng ngày không bình yên.
 “THÁI ÂM cư Tí hiệu viết: ‘thuỷ đăng quế ngạc”. Đắc thanh yếu chi chức, trung gián chi tài”.
Thủy Đăng Quế Ngạc Nước đọng trên cành quế lung linh như hỏa đăng, có tài can gián nhờ bộ CƠ Lương khéo cạt vấn, bộ ĐỒNG ÂM chủ nhất trí.
“ẤM, PHÚC Mệnh Thân bất phạ tai ương”
“THIÊN ĐỒNG toạ mệnh  tính ôn lương”
“THIÊN ĐỒNG hội cát thọ nguyên trường”
“THIÊN ĐỒNG gia ĐÀ KỊ phì mãn nhi mục diêu”
Câu này có nghĩa vừa mập lại có mục tật.
 Cảm hứng cách Đồng Âm
ĐỒNG ÂM cuộc sống rất êm đềm.
Đêm trăng chung bóng thuở bình yên
HỎA LINH xâm nhập đà dánh mất
KỴ HÌNH KHÔNG KIẾP hóa đảo điên.
 Đồng Âm cô bé tính dịu hiền.
Âm thầm hưởng phúc giấc mơ tiên
Cơ may gặp vận chờ em đó
Tiếng nói êm tai xóa muộn phiền

Phá Quân Tý Ngọ Cách

PHÁ QUÂN Tí Ngọ cách.

NHẬN XÉT:
Vị trí nầy là vị trí xuất sắc của PHÁ QUÂN, gọi là PHÁ QUÂN Tí Ngọ. Hữu hợp có THẤT SÁT triều đẩu, Tả hợp có THAM LANG mộ cung cả 3 sao đứng vào vị trí hay nhất. Bên ngoài có bộ LIÊM TƯỚNG xung. Tuy có 3 sao nhưng bộ SÁT PHÁ THAM vững như kiềng 3 chân, so với bộ TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG LIÊM  5 sao.


So sánh cách PHÁ QUÂN tại Tí và PHÁ QUÂN tại Ngọ:
PHÁ QUÂN cư Ngọ bố cục tốt hơn tại Tí, nhờ bộ NHẬT NGUYỆT sáng sủa tốt đẹp tại các cung Huynh, Điền, ảnh hưởng tốt đến cung Tật và Hạn hành dĩ nhiên thuận lợi. Ngọ cung bao giờ cũng hay Tý cung, hướng luôn luôn có ánh mặt trời.
LUẬN ĐOÁN CÁC CHI TIẾT SAU:
NGƯỜI QUÂN TỬ:
 «Quân tử chi ư thiên hạ dã, vô thích dã vô mịch dã nghĩa chi dữ tỉ.» (Đức Khổng nói: Bậc quân tử làm việc cho đời, không có việc gì mà người có ý bỏ, hễ hạp nghĩa thì làm). Nói cách khác là gắn bó với lời hứa của mình. Từ đó PHÁ QUÂN là người bị gò bó vào một khuôn khổ nào đó.
LÃNH ĐẠO, CHỈ HUY, CẦM ĐẦU:
PHÁ QUÂN thuộc nhóm sao chỉ huy. Nhóm chỉ huy gồm:
TỬ VI: Chủ gánh vác, trách nhiệm, lãnh đạo.
PHÁ QUÂN: Cầm đầu.
CỰ MÔN: Chủ đầu đảng, đầu nậu...
PHÁ QUÂN là kẻ cầm đầu thuộc nhóm SÁT PHÁ THAM, so sánh với TỬ VI là kẻ lảnh đạo, bên cạnh PHÁ QUÂN luôn có THAM LANG tham gia, TỬ VI luôn có THIÊN TƯỚNG sẵn sàng tương trợ. CỰ MÔN đầu đảng nhóm CƠ ĐỒNG NHẬT NGUYỆT.
SỰ ÉP BUỘC:
ÉP là THẤT SÁT, BUỘC là PHÁ QUÂN. Tốt là ép buộc được người, xấu là bị ép  buộc bằng lời nói và bằng hành động hoặc những tai nạn liên quan đến lực ép.
“Ép chúng nó đi vào khuôn khổ”... Ép buộc thái quá lại bị phản lực... Đa phần chúng ta là kẻ bị áp bức, kẻ thường dân có ép buộc được ai đâu.
BẮT, GIẾT, SĂN LÙNG.
PHÁ QUÂN chủ bắt, thả THẤT SÁT chủ giết,tha. THAM LANG chủ săn lùng. Đây là 3 yếu tố quan trọng hình thành một số nghề nghiệp như chiến binh nói chung, thợ săn, ngư dân, liên quan đến 2 chữ đánh và bắt.
PHÁ QUÂN liên quan đến bắt và thả (tha). Tốt là được quyền bắt, được quyền thả. Xấu là bị bắt. Phức tạp là nay bắt người ngày mai lại bị bắt. Một ví dụ vô hại về bắt thả. “Bắt con vịt kia kìa làm thịt (giết là THẤT SÁT ) đãi khách, con này có bầu thả nó ra”
KHÁM PHÁ... đến KHÁM BỆNH:
KHÁM PHÁ, PHANH PHUI, VẠCH LÁ TÌM SÂU, KHÁM XÉT, LỤC SOÁT. THĂM DÒ KHÁM PHÁ...
Trên là các từ tuỳ trường hợp để xử dụng. Quan trọng là bị hay là được, có quan trọng không? Khám phá cái gì? Ví dụ: Khám phá một đường dây buôn lậu. Khám phá bí ẩn trong sách vở của người xưa để lại. Được gọi là tham khảo, tham cứu chắc chắn phải có XƯƠNG KHÚC.
Tốt là khám phá ra, khám xét tìm ra...thăm dò phát hiện ra, tìm hiểu ra điều gì đó. Được quyền thăm dò khám phá, được quyền ra lịnh thăm dò khám phá.
Xấu là bị khám phá, lục soát...hoặc đau ốm bị thăm khám. Đây là chuyện thường tình dễ gặp. Nếu đau ốm tất có HÌNH DIÊU Y, hoạt cảnh “hình như là”... “y như là”... bệnh... cúm. Cúm gì nhỉ, “y như là”... Nếu là bác sỹ có KHOA còn bệnh nhân thì không.
Phức tạp là hôm nay khám phá lục soát người ta, vạch lá tìm sâu tới ông tổ tam, tứ đại mai đây trở thành nạn nhân. Hoặc hôm nay bị nhưng ngày mai lại được. Hôm nay phanh phui người mai đây người khác phanh phui mình... Những chuyện ngủ yên trong dĩ vãng, quá khứ xa lắc vẫn được mọi người hôm nay hứng thú tìm hiểu.
ĐẬP PHÁ, ĐẬP BỎ ĐI:
Đập, đánh là THẤT SÁT. Phá là PHÁ QUÂN từ phá phách, phá hoại... đến khám phá. Cho nên PHÁ QUÂN có thể là KẺ ĐÁNH PHÁ, PHÁ HOẠI, PHÁ PHÁCH, PHÁ BỈNH, PHÁ VỞ, QUẬY PHÁ…GÂY RA TAN VỠ, ĐỔ BỂ.
Là sao chủ sự phá phách, quậy phá, chọc phá, phá rối, quấy rối đến khủng bố phá hoại gây ra tan vỡ, lộn xộn...Làm cho cuộc sống bình yên bị mất thăng bằng. Có người thì bị quấy rối tình dục, có kẻ công việc bị phá, sự việc bị phá bĩnh. Hạnh phúc bị tan vỡ. Công việc bị đổ bể, như: bể hụi, bể bạc... nói đến phá, vỡ, bể, bỏ ta phải hình dung là PHÁ QUÂN. Quan trọng cái gì cần đập phá, cái gì cần đập bỏ đi, cái gì cần đánh phá. Cho nên 2 chữ đúng, sai của TUẦN TRIỆT rất cần cho PHÁ QUÂN. Cái gì cần phá phải phá nó đi. Cái gì phá sai ta không nên phá. Có cả đúng và sai thì nên làm.
ĐÓNG MỞ, THÁO LẮP...:
Khi thấy ai đó tháo ra vật gì đó, lại lắp vào. Như mở sách ra đọc rồi xếp sách lại... những thao tác đó có liên quan đến PHÁ QUÂN. Tùy trường hợp thiên về lắp ráp và có khi thiên về tháo gỡ... Từ đó PHÁ QUÂN còn là tay thợ thủ công giỏi, còn là người tháo gỡ những khó khăn (theo nghĩa bóng) của vấn đề.
BỎ PHÍ và ĐÁNH MẤT:
GẮN BÓ và TỪ BỎ. CHÁN NẢN và THAY ĐỔI:
Gắn bó hay từ bỏ là đặc trưng của sao này. Gắn bó với công việc, với đường lối, với con người, với đồ vật... Chán chê thì PHÁ QUÂN lại bỏ, bỏ cái này thì gắn bó với cái khác.
Bỏ thằng này nó lấy thằng khác. Bỏ việc này làm việc khác. Bỏ đường lối này tìm đường lối khác. Bỏ chiếc xe này lại gắn bó với chiếc xe khác... Cứ thế mà thay đổi. Vì thế PHÁ QUÂN gây ra sự hao tán cho nên gọi là HAO TINH, ưa thay cũ đổi mới không thua gì THIÊN ĐỒNG vì PHÁ QUÂN luôn luôn nhị hợp với THIÊN CƠ, cho nên PHÁ QUÂN là ngôi sao ưa thay đổi. “Chán quá đi !” đó là lúc ngôi sao này hoạt động. Chỉ có những PHÁ QUÂN có TUẦN và ĐÀ tam hợp mới gắn bó dài lâu. Còn lại là quân tử chỉ một lúc thôi, một đoạn thôi... rồi bỏ người mà đi, hoặc bị xua đuổi phế bỏ. Thấy PHÁ QUÂN là cuộc sống dễ đâm ra lộn xộn, rối ren bởi bỏ, đổi thay... và luôn miệng kêu ca đòi hỏi sự công bằng, quân bình bị phá vỡ.
SỰ TƯƠNG ĐƯƠNG:
Ví du: Anh thương tôi thì tôi thương anh. Bánh ít trao đi bánh quy trao lại. THIÊN TƯỚNG phải tương đương với PHÁ QUÂN ở cung xung chiếu, cho nên nếu PHÁ QUÂN phá THIÊN TƯỚNG cũng phá lại, nếu PHÁ QUÂN quấn quít thương yêu thì THIÊN TƯỚNG  cũng thương yêu. Vì vậy bộ TƯỚNG PHÁ kị gặp các sao có tính đố kị như HOÁ KỊ, chống đối như  KÌNH DƯƠNG, THIÊN HÌNH. Tạo thành các cách tương kị, tương tranh, tương kình. Nhất là gặp đủ ba sao KỊ HÌNH KÌNH. Cho nên bộ sao này luôn luôn có một đối tượng trước mặt, để thương yêu, để tương tranh, để tương kình.  Vì thế còn có một nét chung, là đòi hỏi sự công bằng, quân bình. Ví du: trong các phim Bao Công ta thường nghe câu: ‘Trả lại sự công bình,...sự công bằng’. Hoặc địch đóng tại đó X quân số, thì ta cũng phải gởi đến nơi ấy 1 lực lượng tương đương. Đó là trong quân sự, trong thương mãi, người ta khuyến mãi để cạnh tranh thì mình phải có 1 tác động tương tự để sanh tồn...
PHÁ QUÂN Tý Ngọ dễ trở thành người độc thân.
Đó là trường hợp MỆNH đóng tại đó, với bản chất mau chán. Cộng với cung PHU THÊ có sao VŨ KHÚC chỉ một khúc thôi, một đoạn thôi chỉ có những cuộc tình ngắn ngủi, chưa kịp thành vợ chồng đã chán nhau rồi. Cho nên có câu:
PHÁ QUÂN Khảm, Ly cô thân độc ảnh” (Khảm là Tý, Ly là Ngọ)
Và còn là mẫu người không mấy minh bạch rõ ràng hay đuổi theo ảo vọng, rồi hay chán nản chưa kể đến tam hợp có THAM LANG bày mưu hiến kế, nhị hợp có THIÊN CƠ cật vấn hỏi han làm cho PHÁ QUÂN càng dễ bị thay đổi. PHÁ QUÂN thích thì làm, thỏa mãn sự tò mò khám phá xong thì thôi. Đeo đuổi những cái mới khác lạ. Vì thế có câu:
PHÁ QUÂN nhất diệu tính nan minh
Cho nên đừng ngạc nhiên khi thấy PHÁ QUÂN bỏ những cái tưởng chừng không thể rời ra được.
PHÁ QUÂN lý tưởng:
Một PHÁ QUÂN Tý Ngọ lý tưởng nhất có thể làm vua chúa vì tính chất ưa cầm đầu của sao này, nhất là các đại hạn kế tiếp của PHÁ QUÂN luôn có CỰ MÔN, TỬ VI toàn những sao ưa cầm đầu gặp nhau làm cho tính chất ấy dễ phát huy hiệu quả.
“PHÁ QUÂN Tí Ngọ gia quan tiến chức”
“PHÁ QUÂN Tí Ngọ vô sát quan tư thanh hiển chí Tam công”
“PHÁ tại Khảm Li tam thiếu, tam công quyền đắc trọng”
Đó là những câu phú ca ngợi PHÁ QUÂN Tý Ngọ. Là sao vượt khó khăn trở ngại để thành công, đánh phá những cái hư, cái xấu, cái cản trở của ĐÀ, cái khó khăn của KÌNH. Đi với các ngôi sao tốt đẹp vui vẻ lại hỏng cách, vô tình phá bỏ, đánh mất niềm vui.
PHÁ QUÂN cư Tí cần gặp và kị gặp:
CẦN GẶP :
KHỐC HƯ: Hợp cách, uy hùng, tăng tính táo bạo cho PHÁ QUÂN vì KHỐC HƯ có tính tàn nhẫn ở trong đó, làm cho PHÁ QUÂN thêm gan dạ. Bộ KHỐC HƯ được gọi là hay chẳng qua là nhờ PHƯỢNG CÁC tam hợp. Đó là hình ảnh một người trước hư sau nên. Tuổi trẻ hư hỏng như về sau thành đạt. (Quan Công và anh em vườn đào kết nghĩa, thoạt đầu là bọn ăn cướp, nhưng biết chuyển hướng làm ăn lưu danh muôn thuở). Khi có bộ KHỐC HƯ cần đi với bộ KÌNH ĐÀ mới hay.
TUẾ HỔ PHÙ, TANG HƯ KHÁCH:
Đi với nhóm sao này hay hơn là đi với nhóm ĐÀO HỒNG CÔ QUẢ. Trừ trường hợp Tang Binh đồng cung phải xét lại.
TUẦN, TRIỆT:
Đi với TUẦN chủ tận trung, chung thủy gắn bó dài lâu. Chủ phá đúng, phá trúng biết phá bỏ những cái cần phá, biết bỏ những cái cần bỏ. TUẦN TRIỆT là 2 sao cần thiết đối với PHÁ QUÂN. Còn chủ phòng tránh bị bắt bớ giam cầm. Hay nhất là cả 2 sao nằm chung với PHÁ QUÂN, lúc đó gọi là triệt để tuân thủ, tuân theo, từ góc độ nào cũng thấy PHÁ QUÂN có cả TUẦN TRIỆT. Từ vị trí THAM LANG hay THẤT SÁT nhìn lại cũng hưởng cách hay kể trên. Bộ sao này giúp ngăn ngừa PHÁ QUÂN làm điều bậy bạ (phòng ngừa bị bắt). Đi với vài sao tam Hóa nói lên sự thành đạt nhưng nếu thấy bộ ĐÀO KHÔNG KIẾP hay HỎA HAO KÌNH, KỴ HÌNH phải đoán là xấu. Lúc đó PHÁ QUÂN bị bắt vì gây ra tai nạn, tai họa, vi phạm luật cấm. TUẦN TRIỆT lúc đó là trọng nạn, trọng tội, bắt đúng người đúng tội, loại trừ ra, loại bỏ ra khỏi xã hội. Gọi là bị TRIỆT PHÁ như ta thường nghe “triệt phá một... băng đảng (tổ chức, đường dây...)
Tam HÓA:
PHÁ QUÂN Tý Ngọ không cần thiết có tam Hóa vì bố cục của cách này không thể có đủ bộ được. Ngoài ra PHÁ QUÂN đơn thủ chủ phá bỏ cho nên các hóa khí như Hóa LỘC chưa chắc đã hay hoặc không phù hợp với chiến binh.
HOÁ KHOA: Đi với PHÁ QUÂN hợp cách lợi cho khám phá cũng như đánh phá một cách khoa học có sao này mới hay, càng  hay hơn khi có thêm QUYỀN hay LỘC.  PHÁ QUÂN đó được quyền phá những cái cần phá. Có KÌNH ĐÀ càng thêm hay. Lúc đó mang ý những khó khăn trở ngại mà thành công. Muốn đánh chiếm một vị trí của địch ư? Đó là một bài toán khó.
XƯƠNG KHÚC: Hợp cách lợi cho giáo dục chủ tham khảo. Hay nhất là có thêm TẢ HỮU.
TẢ HỮU XƯƠNG KHÚC: Hợp cách ‘Tá quân vương’. Khi có XƯƠNG KHÚC thì không lo sợ có KHÔNG KIẾP hội họp. Không những Tá quân vương có QUYỀN KHOA còn là cao quý nhất.
“PHÁ QUÂN Tí Ngọ hội VĂN  XƯƠNG
TẢ, HỮU song song nhập miếu lang
Tài bạch phong doanh đa khẳng khái
Quan lộc chiêu tước tá quân vương...”
ĐÀ LA tam hợp: tức ĐÀ tại vị trí THAM LANG, THẤT SÁT. PHÁ QUÂN tam hợp có ĐÀ, hay đồng cung với ĐÀ, lúc ấy cả bộ SÁT PHÁ THAM đều ngộ ĐÀ. Những PHÁ QUÂN ngộ ĐÀ hay hơn dễ chịu hơn PHÁ QUÂN ngộ KÌNH. Hay nhất là hợp ĐÀ có KÌNH xung. Mang ý vì áp bức nên tôi phải chống đối, vì thuận theo lòng người nên tôi chống... ĐÀ chủ thuận theo, hướng dẫn... Trong trường hợp này có TUẦN TRIỆT rất là hay. Thành công hay thất bại tùy vào bộ Tam Hóa hay KHÔNG KIẾP KỴ HÌNH hội họp. So sánh với KÌNH ở dưới.
KỊ GẶP:
LỘC TỒN: Hội họp tức đồng cung, xung chiếu, tam hợp là “cát xứ tàng hung”, có thêm MÃ nam đa lãng đãng nữ đa dâm. PHÁ QUÂN là ngôi sao kỵ nhất với LỘC TỒN, so với CỰ MÔN ngộ LỘC TỒN còn đỡ rất nhiều. Kỵ nhất là LỘC TỒN xung, tức PHÁ QUÂN ngộ PHI LIÊM báo hiệu một tai họa “phá tan tành” chẳng còn chi cả. Các trường hợp PHÁ QUÂN đồng cung với TƯỚNG QUÂN đều ẩn tàng những tai họa rất xấu.(Cái mà các sách TỬ VI cho là nội Tướng ngoại Binh, hay nội Binh ngoại Tướng không hết lời ca ngợi ấy. Không sớm thì muộn cũng bỏ Binh, bỏ Tướng mà chạy nhưng trước khi bỏ nhau. Tướng và Quân có giai đoạn gắn bó để mà sau đó bỏ nhau vì thế mới gọi là “cát xứ tàng hung”. Cái tốt đẹp ẩn tàng tai họa. Nhớ lại ngày xưa, bản thân người viết cũng mê man theo cách này. Vậy thì “LỘC phùng xung PHÁ cát xứ tàng hung” nằm ở đâu?. Ngẫm lại thấy người xưa viết môt câu phú rất hay còn ẩn tàng nhiều ý mà không tiện nói ra, nói ra cũng chẳng ích gì. Ai muốn hiểu gì thì hiểu.
ĐÀO HOA: Chỉ gây ra sự ồn ào, ăn chơi quậy phá. Đập phá mua vui, đánh lộn thì tài, đánh giặc không dám có chăng là đào... ngũ. Đại kỵ có thêm KHÔNG KIẾP gây họa thậm chí giết người. Hoặc có bộ KỴ HÌNH chủ quậy phá vi phạm pháp luật đưa đến tù tội. PHÁ QUÂN lúc đó trở thành kẻ bị bắt.
HỎA LINH: Chủ sự bôn ba lao khổ vì bộ sao này chủ lịnh lạc khẩn cấp, làm cho PHÁ QUÂN ăn không ngon ngủ không yên, luôn luôn phải ở tư thế phải sẵn sàng. Nếu có HỎA TINH còn kỵ bộ HAO KÌNH dễ phát sinh nổi điên vì lịnh với lạc, còn kỵ bộ KHÔI VIỆT, nổi giận phát hỏa đốt bỏ, nếu có KỴ HÌNH lại là chủ bị lịnh bắt khẩn cấp. Bởi thế có câu: “Hỏa Hao ngộ PHÁ tai ương...”. PHÁ QUÂN đi với LINH hay hơn là với HỎA nhưng cũng cần có QUYỀN hay KHOA trợ lực. Nếu không cũng dễ bị bắt.
KÌNH DƯƠNG: hỗ trợ cho SÁT PHÁ làm điều bạo ngược, nhất là khi có LINH, KIẾP SÁT.
Có câu: “SÁT PHÁ hung trợ KÌNH DƯƠNG”. Sát Phá vốn là Hung tinh nay thêm KÌNH DƯƠNG như vũ khí mạnh càng thêm bạo nhất là dễ gặp KÌNH có KIẾP SÁT. Lại có thêm LINH TINH tạo thành cách KÌNH LINH (chống lịnh trên) thì việc chi chẳng dám làm. Đây là PHÁ QUÂN hung hăng nhất. Một khi KÌNH DƯƠNG đồng cung hay tam hợp với PHÁ tạo thành các cách SÁT KÌNH (tranh đoạt...) THAM KINH (tham gia chống đối...) PHÁ KÌNH (chống phá...) toàn bộ SÁT PHÁ THAM toát lên tính sát khí đằng đằng. Thành công hay thất bại, được mất do Cát tinh, Sát tinh quyết định. Xếp bộ PHÁ KÌNH vào phần Kỵ gặp có thể bất công nhưng muốn nhấn mạnh tầm nguy hiểm của bộ sao này. Bộ PHÁ KÌNH sinh ra để chống đối, chống phá đi với nhóm TUẾ HỔ PHÙ hay TANG HƯ KHÁCH còn chấp nhận được vì có liên quan đến đường lối, lập trường nhưng đi với HỒNG ĐÀO chỉ gây ồn ào vô bổ vì những tranh giành, tranh đoạt có tính cá nhân.
KHÔNG KIẾP:
Đồng cung với một trong hai sao này, hay tam hợp có KHÔNG KIẾP hội họp cũng không đáng sợ. PHÁ QUÂN có thể khám phá ra tai họa do KHÔNG KIẾP gây ra, đập tan những tai họa đó nhưng có thêm KÌNH ĐÀ hay LINH HỎA thì chưa biết ai thắng ai trong cuộc chiến này. Một PHÁ QUÂN giỏi có thể chơi với vài ba tên địch nhưng nhiều hơn con số đó là dễ mang họa vào thân. Một khi không phá nổi tai họa ắt bỏ mạng, hoặc bị bắt bớ trói buộc.
PHÁ QUÂN ngộ KHÔNG KIẾP cũng không đáng sợ bằng có thêm ĐÀO HỒNG vì PHÁ QUÂN đó gây ra tai họa rất lớn bị bắt bớ là chuyện không tránh khỏi.
HÓA KỴ: Nếu chỉ có KỴ thôi hoặc có KÌNH ĐÀ còn có thể vô hại. Chủ đừng bắt, đừng giết, đừng tham sân si lợi cho tu hành., lúc ấy Kỵ có nghĩa là “ghét” 3 cái thứ ấy. Nhưng tối kỵ gặp thêm HÌNH biến thành vi phạm pháp luật của trời cũng như luật pháp của người. Hoặc bộ KỴ KIẾP lại là nạn nhân của đố kỵ ức hiếp kèm thêm áp bức của SÁT PHÁ. Nhưng có thêm ĐÀO lại là họa lớn do bị ức hiếp thái quá chịu không nổi phản ứng lại sinh họa. PHÁ QUÂN có KY không nên gặp thêm TRIỆT. Chủ bị ghét bỏ, bị trừ bỏ.
THIÊN HÌNH: Chỉ một THIÊN HÌNH thôi chẳng có gì đáng sợ. (Chủ phá lệ như trong lễ nghi ta có thể linh động nhập 2 lễ cưới hỏi vào 1. Trong văn chương như thơ lục bát có thể làm câu 6 câu 10. Hoặc gieo vần không nhất thiết vào chữ thứ 6 câu 8 gọi là phá lệ, các thể thất ngôn bát cú đa phần làm tự do). Nhưng kỵ gặp thêm KỴ thành ra vi phạm tương tranh xung đột, kể cả gặp thêm KHÔI VIỆT  biến thành tội lớn hoặc tai họa giáng xuống, tất nhiên kỵ KHÔNG KIẾP. Nếu có HÌNH DIÊU Y lại có thêm THIÊN MÃ là ăn chơi phiêu đãng. Có HÌNH DIÊU Y đi với KHOA lợi về ngành Y KHOA. Chủ thăm khám bệnh.
KHÔI VIỆT:
Bộ sao này không thích hợp mấy với PHÁ QUÂN. Vì nó chủ bộc phát, sinh ra sự chán, bỏ, đoạt, giết, ham muốn. Nếu thấy KHÔI VIỆT gia thêm XƯƠNG KHÚC lợi cho văn học, học vấn. Có KHÔI VIỆT  rất kỵ gặp thêm LINH HỎA, HÌNH, KHÔNG KIẾP. Nó chủ bộc phát tai họa to thêm ra mà thôi. Nếu có bộ VIỆT KÌNH chủ bôn ba đó đây.
Phần viết về Cần và Kỵ gặp có thể đem áp dụng vào Hạn có PHÁ QUÂN Tý Ngọ.

Thất sát tinh quyết

Thất sát tinh quyết



Tổng luận

      Thất sát là sao của Nam Đẩu, thuộc âm Kim, Thất sát được coi là “tướng tinh”. Trong Đẩu Số có hai “tướng tinh” là Thất sát và Phá quân, hai sao này luôn luôn tương hội ở tam phương, hai bên hỗ trợ thanh thế cho nhau.

      Hai tướng tinh Thất sát và Phá quân có đặc tính khác nhau, cổ nhân ví Phá quân là tướng tiên phong trong quân, còn Thất sát là chủ soái trong quân, khi so sánh, Thất sát chủ về “lao tâm”, Phá quân chủ về “lao lực”. Thất sát chủ về hành động một mình, đơn phương độc mã. Phá quân chủ về phải đợi hiệu lệnh, mệnh lệnh ở chủ soái.

      Khi tình hình Tử vi đồng độ cùng với Phá quân, trở thành tinh hệ “Tử vi Phá quân” lại có xung đột quyền lực. Tử vi lấy tư cách tôn quý của hoàng Đế để xung trận, còn Phá quân chịu sự điều khiển của Tử vi, nhưng lại đảm đương trọng trách tiên phong, nhiều lúc khó tránh tình huống công thủ, tiến thoái bị mâu thuẫn. Thất sát thì không như vậy, lúc Tử vi và Thất sát đồng độ, thành tinh hệ “Tử vi Thất sát”, lúc này, Thất sát nhận lệnh trực tiếp từ quân vương, quyền lực càng lớn, “hóa sát làm quyền” liêm khiết chuyên chính, nên không xảy ra tình huống xung đột quyền lực.

      Thất sát có tính “cứng rắn và hình khắc”, là sắc thái đặc biệt của Thất sát. Do tính “cứng rắn và hình khắc”, nên không ưa Văn xương, Văn khúc, khí chất hai bên không hợp, để tương hợp văn tinh và võ tinh, cần có điều kiện, đó là khi có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng thời hội hợp. Đặc biệt là khi “Tử vi Thất sát” đồng cung, có các Phụ diệu và Tá diệu “triều củng” sao Tử vi, sẽ trở thành đại cách.

      Cổ nhân có thuyết “Thất sát thủ mệnh, thừa vượng nhập miếu, chủ về có mưu lược. Gặp Tử vi lại thêm sao Cát, ắt là đại tướng” (Thất sát thủ mệnh miếu vượng hữu mưu lược. Kiến Tử vi gia kiến chư cát, tất vi đại tướng). Còn có thuyết “Thất sát thủ mệnh, thừa vượng nhập miếu, được Tả phụ Hữu bật Văn  xương Văn khúc vây chiếu, chủ về nắm quyền sinh sát, phú quý hơn người”  (Thất sát thủ mệnh miếu vượng đắc Tả Hữu Xương Khúc củng chiếu, chưởng sinh sát chi quyền, phú quý xuất chúng).

      Thất sát gặp các sao Sát Kị Hình, càng làm mạnh thêm tính “cứng rắn và hình khắc” của nó, do đó cũng làm mệnh cách thường gặp cảnh ngộ gian nan. Cổ nhân nói “Thất sát và Phá quân, chuyên theo tai vạ của Kình dương và Linh tinh” (Thất sát Phá quân, chuyên y, Dương Linh chi ngược), “Thất sát mà gặp bốn sao sát Kình dương, Đà la, Hỏa tinh, Linh tinh, chủ về chết ở trận tiền” (Thất sát trùng phùng tứ sát, yêu đà bối khúc trận trung vong).

      Lúc đại hạn và lưu niên gặp lưu Sát tinh, cũng chủ về không cát tường, cổ nhân nói “Thất sát và lưu Kình dương gặp Quan phù, chủ về xa quê hương” (Thất sát lưu Dương ngộ Quan phù, li hương tao phối), cổ nhân còn nói “Thất sát đến cung Thân hay cung Mệnh, gặp lưu niên Kình dương Đà la, chủ về tai họa tổn thương” (Thất sát lâm thân mệnh, lưu niên Dương Đà, chủ tai thương); “Thất sát gặp Kình dương và Linh tinh có lưu niên Bạch hổ, chủ về bị tai kiếp ở biên cương” (Thất sát Dương Linh, lưu niên Bạch hổ, hình lục tai biên); kết cấu hung hiểm nhất là “Thất sát thủ mệnh có Kình dương của niên hạn chiếu, người sinh năm Ngọ an ở Mão hoặc Dậu, chủ về hung” (Thất sát thủ chiếu tuế hạn Kình dương, Ngọ sinh nhân an Mão Dậu cung, chủ hung vong), đây là nói về kết cấu “Kình dương Đà la trùng điệp”.

      Phàm các thuyết liên quan đến việc Thất sát gặp Sát tinh, đều cho rằng Thất sát không nên gặp thêm tứ Sát và Địa không, Địa kiếp.

      Thất sát được cách nổi tiếng nhất là “Hùng tú kiền nguyên”, tức là khi Thất sát và Liêm trinh đồng cung tại Mùi, hoặc Thất sát ở Ngọ và Liêm trinh ở Thân, hai cung chia ra một ở cung Thân và một ở cung Mệnh. Thất sát đồng độ với Liêm trinh, tính chất biến hóa rất lớn. Cùng một cung mệnh, nhưng cách cục cao thấp có mức độ chênh lệch rất lớn (Mân phái cho rằng ở Sửu tốt hơn ở Mùi), Tam hợp phái cho rằng, có nhiều loại phối hợp ở Mùi mà có sự thành tựu lớn hơn rất nhiều so với ở Sửu. Cách nổi tiếng này ưa gặp sao Lộc, Văn xương, Văn khúc, bởi vì âm Hỏa của Liêm trinh tôi luyện âm Kim của Thất sát, cho nên không ưa gặp các sao “dương cương” gây rối loạn đầu cuối và làm tình thế khó ứng xử, lại sợ có Hỏa tinh cùng bay đến là phá cách, vì cổ nhân ví sự đồng độ của “Liêm trinh Thất sát” là Hỏa luyện Kim, gặp thêm Hỏa tinh bay đến phá hoại, thì hỏa hầu bị mất điều hòa.  

      Thất sát độc tọa ở Dần, cung đối diện có “Tử vi Thiên phủ”, gọi là “Thất sát ngưỡng đẩu”. Khi Thất sát độc tọa ở Thân, cung đối diện có “Tử vi Thiên phủ”  gọi là “Thất sát triều đẩu”. “Triều đẩu” và “ngưỡng đẩu” đều chủ về cuộc đời gặp nhiều cơ hội, còn chủ về năng lực quản lý tốt. Nếu gặp “tam cát hóa” có thêm Cát tinh chủ về đại quý; nếu đồng thời có thêm Sát tinh chủ về theo nghề sản xuất hoặc theo những nghề mà tài năng quản lý được phát huy.

      Bất kể là nhập cách hay không nhập cách, người có Thất sát độc tọa thủ mệnh, cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, trắc trở; dù có chính diệu khác đồng độ, ắt cũng phải trải qua một thời kỳ khốn khó, nếu gặp Sát tinh tụ hội thì khốn khó trắc trở càng nặng hơn, chủ về phá tán gẫy đổ. Cho nên cần phải “hành động thiết thực” để giữ vững hiện trạng, không nên đầu cơ may rủi. Nếu gặp Tả phụ, Hữu bật, Thiên khôi, Thiên việt, Lộc tồn, Hóa Lộc, chủ về cuộc đời sẽ được bạn bè hiệp trợ và trợ lực, nhờ đó mà vượt qua ải khốn khó.

      Khi đánh giá tình huống cát hung của Thất sát độc tọa, cần phải chú ý tính “cứng rắn và hình khắc” của Thất sát ở mức độ nào. Nhất là nữ mệnh, quá “cứng rắn và hình khắc” ắt sẽ “hình phu khắc tử”, đời người khó tránh cô tịch.

      Thất sát tối kị Kình dương Đà la, cũng không ưa gặp sao Tuyệt và không ưa ở vào tình thế hãm địa, Cổ nhân nói “Thất sát mà đến đất Tuyệt, hội hợp với Kình dương Đà la, tuổi trời như Nhan Hồi” (Sát lâm tuyệt địa hội Dương Đà, thiên niên thiên tự Nhan Hồi), “Tuyệt địa” ở đây tức là vị trí sao Tuyệt trong “Ngũ hành Trưởng sinh thập nhị thần”, thuyết này tuy nói quá nghiêm trọng, nhưng cũng chủ về cuộc đời nhiều âu lo, nạn tai, bệnh tật. Hơn nữa, kết cấu tinh hệ kiểu này có cách cục không cao, chỉ thích hợp theo ngành công nghệ, khoa học kỹ thuật hoặc những nghề chuyên nghiệp thông thường.

      Cổ nhân nói “Thất sát hãm địa, chủ về nên dùng tay nghề khéo để mưu sinh” (Thất sát hãm địa, xảo nghệ mưu sinh). Gặp tinh trạng này, rất nên gặp các sao Văn xương, Văn khúc, Long trì, Phượng các, Thiên tài, chủ về làm tăng thêm thông minh tài trí trong nghề nghiệp. Nếu gặp Sát tinh thì nên theo Võ nghiệp hoặc những nghề nghiệp có “sát khí”, tức chọn những nghề dính dáng đến kim loại, công cụ bén nhọn để mưu sinh. Cổ nhân nói “Thất sát có Kình dương Đà la hội hợp mệnh đồ tể” (Thất sát Dương Đà hội sinh hương đồ tể chi nhân) là nói về lý này. Nhưng nếu gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội chiếu, lại có Tả phụ Hữu bật hoặc Thiên khôi Thiên việt đồng độ hay hội hợp, thì lại chủ về có địa vị cao trong xã hội.

      “Thất sát Liêm trinh” đồng độ ở cung Mệnh hoặc cung Thiên di, gặp Kình dương Đà la và Hóa Kị, hơn nữa còn có lưu Kình, lưu Đà, lưu Kị xung khởi, đây là cách cục nổi tiếng “Sát củng Liêm trinh cách”, chủ về đi xa có chuyện bất trắc. Có thuyết “Liêm trinh Thất sát đồng cung, chủ về chôn thây trên đường” (Liêm Sát đồng vị, lộ thượng mai thi), gặp Vũ khúc Hóa Kị và Liêm trinh Hóa Kị thì càng nghiệm. Thất sát có Phá quân, Liêm trinh hội hợp, cũng chủ về tai nạn giao thông.
      Tổ hợp Thất sát ở 12 cung ắt sẽ đối diện với Thiên phủ, tính vững vàng của Thiên phủ và tính xung kích của Thất sát sẽ hình thành sự xung đột, khi luận giải cần phải xem xét kỹ sự ảnh hưởng lẫn nhau của chúng.

      Thất sát độc tọa ở Tý hoặc Ngọ, sẽ đối diện với “Vũ khúc Thiên phủ”. Ở Mão hoặc ở Dậu thì “Thất sát Vũ khúc” đồng độ; cho nên bốn cung Tý Ngọ Mão Dậu là tổ hợp “Vũ khúc, Thất sát, Thiên phủ”.

      Thất sát độc tọa ở Thìn hoặc ở Tuất sẽ đối củng với “Liêm trinh Thiên phủ”; ở Sửu hoặc ở Mùi có “Thất sát Liêm trinh”, cho nên bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi là tổ hợp “Liêm trinh, Thất sát, Thiên phủ”.
      Thất sát độc tọa ở Dần hoặc ở Thân sẽ đối củng với “Tử vi Thiên phủ”, ở Tị hoặc ở Hợi có “Tử vi Thất sát” đồng độ, cho nên bốn cung Dần Thân Tị Hợi là tổ hợp “Tử vi, Thất sát, Thiên phủ”.